Thứ Bảy, 1 tháng 2, 2014
Vui chi vui lạ, lạ chi lạ rứa!…
Miền Bắc có cái yến là 10 ký, miền Nam có cái giạ là 20 ký, miền Trung có cái ang ...Không biết đích xác mấy ký! Chỉ hay ang thường đong được 30 lon sữa bò, tầm hơn 8,5kg. Thế nhưng vấn đề là đơn vị ang này ở Đà Nẵng lại khác với Đại Lộc, càng khác với Vĩnh Điện, Nam Phước, hay Hà Lam, Tam Kỳ vì có nó chỉ 20 lon, có nơi lại 26 lon, rồi 28 lon, có nơi là 32 lon, 36 lon và có nơi 40 lon! Ngay bản thân cái lon cũng không thống nhất, có người dùng lon đáy bằng, nơi khác lại dùng lon đáy lõm, đáy lồi. Cách đong cũng có nơi đong gạt bằng miệng lon, có nơi lại đong đầy hết cỡ. Tại sao thế, người viết bài này đã nghiền ngẫm nhiều về chuyện cái ang này nhưng thực thụ không hiểu sao lại thế. Không chỉ chuyện cái ang đong gạo là cái thứ thiết thân hằng ngày đã rất không hợp nhất, các thứ khác cũng vậy, hầu như chẳng có cái gì làm chuẩn. Nếu miền Bắc, miền Nam cái cân được sử dụng để cân từ rau hành đến cá, thịt thì ở miền Trung tuốt đều được định bằng mớ. Mớ cá nục là 12 con, không cần biết con lớn hay con nhỏ, chỉ đôi mắt “kinh nghiệm” mà định giá rồi trả. Con gà con vịt cũng vậy, không cân mà cầm trên tay nhấc thử mấy cái, bóp bóp cái lườn mà theo giá người bán đưa ra rồi trả. Thấy được thì mua, thậm chí thấy người bán ngô nghê ra giá thấp thì không cần phải trả. Thế mới có chuyện vui, một bà bán lươn không dùng cân mà đong lươn bằng lon. Đong một lon lươn đầy, lấy tay gạt ngang vẫn còn một cái đầu lươn. Gạt lần nữa cái đầu vẫn ngúc ngoắc trên miệng lon, bà bán lươn mới bảo: “Thôi , thêm cho chị cái đầu. Rẻ rồi đó!”. Mấy cô dâu ngoài Bắc hoặc Nam về Trung, ban đầu than trời vì cách mua bán chẳng cần đo lường này. Riết rồi quen, thấy cái cân đâm lạ lạ, ngàn đồng hành lá mà cũng cân thì trông nó lạnh lùng quá, các bà các chị bảo thế. Chỗ này tôi đồ chừng rằng chính việc ra giá con gà con vịt mà không dựa vào cân nó có niềm tây của người bán, họ được quyền định giá sản phẩm của mình, chứ không phải giá chợ. Không phải chỉ chuyện cân đong đo đếm người miền Trung có cái cách chẳng giống ai mà ngay chuyện mua bán kinh dinh “tiếp thị” của các bà, các chị, và cả các ông nữa. Một lần tôi dừng xe bên hạ trước chợ ở ngay Đà Nẵng để mua bó chè xanh. “Bà bán con bó chè xanh”. Tôi lặp lại câu ấy ba lần bà già vẫn cứ tỉnh bơ nhìn mọi người qua lại. Một cô gái bán rau bên cạnh mới cười đứng dậy cầm bó chè đưa tôi rồi bảo: “Lần sau anh mua thì dựng xe bước vào. Đứng trên xe thế này bà cụ không ưng!”. Thế ra không phải mấy bà già không lấy chuyện đồng lời làm trọng, chỉ lấy chuyện bán mua làm vui, mua bán cũng còn phải có trên có dưới nữa! Ngay cả một cửa hàng trên phố cũng một cái tính cách bất cần như vậy. Cách đây chừng dăm năm, trên đường Phan Châu Trinh ở Đà Nẵng, có một dãy phố chuyên kinh dinh việc in ấn. Mọi chuyện kinh dinh êm đẹp bỗng đâu một người trương lên tấm bảng “Đại hạ giá in thiệp mùa cưới”. Vậy là hàng loạt cửa hàng khác cũng phải treo bảng “đại hạ giá” theo. Thời buổi cạnh tranh, việc như thế nghĩ cũng thường ngày. Thế nhưng với người Quảng Nam thì không. Một chủ hàng in thiệp khác, chắc dân Quảng Nam gốc, nghe đâu tức mình mới treo lên tấm bảng “Đại lên giá”! Cái hay của vấn đề chính là cái chỗ cửa hàng “đại lên giá” ấy lại đắt khách hơn các cửa hàng “đại hạ giá” khác. Sau khi lập lại thứ tự thềm, tấm bảng ấy bị công an tịch thâu mất chứ không chắc đến nay cũng vẫn còn. Người miền Trung nói chung, chúa ghét chuyện mời mọc. Người Bắc thì quý trọng lời mời giòn giã, đon đả, người Nam thì cho đó là nồng hậu, cuộn và sự mời mọc thường đem lại kết quả. Người miền Trung thì thường bỏ qua cửa hàng, gian hàng nào mời mọc “dai như đỉa”. Đi chợ miền Trung các bạn chớ chờ đợi sự mời mọc. Mua thì nhìn đó mua, hỏi giá thì trả lời chứ mời thì không. Ông bạn tôi người Quảng Nam phong lưu lắm ở đất Sài Gòn mấy chục năm nay, nhưng đến ăn nhà hàng nào có nhân viên phục vụ đứng kề bên là ông chịu, ăn không vô. Còn nhiều lắm những chuyện trái khoáy như vậy ở vùng Quảng Nam. Tỉ dụ như chuyện bát đường đen, người quê gọi là đường táng. Bát đường đen thui vì chế biến bằng phương pháp rất thủ công, thủ công đến mức có lẽ hai ngàn năm trước cũng làm đường mía như thế. Thế mà người ta vẫn cứ giữ cách ép mía, nấu đường cũ kỹ ấy, mặc cho các phương pháp chế biến mía đường của người Quảng Ngãi ở sát nách đó đã khôn cùng tinh xảo, cho ra hàng chục sản phẩm cao cấp như đường trắng, đường phèn, đường phổi... Người Quảng Nam vẫn giữ nguyên một cách nấu đường nguyên thủy thô sơ nhất. Liệu đó có phải là sự cổ hủ trong khẩu vị chăng? Hổng phải đâu, xin đừng quên đây là quê hương của phong trào Duy tân, cách tân tổ quốc hồi đầu thế kỷ XX. Và đây cũng là quê hương của các cuộc phá rào làm khoán chui của những năm sau 1980 để đưa đến công cuộc đổi mới giờ. Các doanh nghiệp khi đến Quảng Nam, Đà Nẵng hãy cứ nhớ như vậy, đừng bảo nhân viên mời mọc hoặc đi theo khách hàng phục vụ họ bất cứ việc gì, các cánh cửa kính ngó đẹp vậy chứ là vật cản khách hàng đó. Mới đây một cửa hàng thời trang Lega ở Đà Nẵng sau 2 năm mở cửa đã phải dẹp tiệm chính bởi cái cửa kính nặng ì ấy. Đó là ý bà xã người viết bài này, tầm cỡ “chuyên gia” mua sắm, nhưng thấy cái cửa kính thì thường né. Mẹ tôi, một bà già Quảng Nam chính gốc, thường bảo con cái: “Làm cho ai việc gì chớ bao giờ kể công. Ai chịu ơn cũng mong có ngày được trả. Người ta chưa trả mà đã vội nhắc, kể công một tiếng rằng đổ sông đổ biển hết, là bạn trở nên thù đó”. Đó là cá tính của người Quảng Nam hay cũng là tính khí chung của người Việt mình? Thật khó mà biết, thôi thì cứ tạm gọi, thấy đâu nói đó như vậy trong khi đợi chờ các nhà nghiên cứu địa phương học tổng kết được điều gì. Thế mới hay cái lý của người Nhật trước khi quyết định đầu tư vào đâu thường cho các nhà nghiên cứu đi trước, Quỹ Toyota Foundation là một tỉ dụ. Không để ý những điều này, thất bại như cửa hàng Lega nọ thì thật tiếc. Báo Quảng Nam Ảnh TL (minh họa)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét