Top Google Việt Nam : Làm Biển Quảng Cáo, Mua Bán Ô Tô Cũ, Phong Thủy, Gitizen.info, Blog Thủ Thuật SEO, Quà Tặng Lưu Niệm

Thứ Ba, 2 tháng 9, 2014

Mộc bản 300 năm tuổi

Đó là bộ văn khắc trên gỗ thị với gần 250 bản, ghi lại nội dung kinh Phật, các bài kệ, chú, bài cúng đang được lưu giữ tại chùa Phước Lâm (Hội An, Quảng Nam). Với người dân Hội An, chùa Phước Lâm không xa lạ, bởi đây là ngôi cổ tự khôn thiêng được xây dựng từ thế kỷ XVIII, được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia. Dù vậy, mãi đến tận giờ, nhiều người mới biết chùa Phước Lâm đang lưu giữ bộ mộc bản quý. Những tưởng, bộ mộc bản này sẽ được nhà chùa cất kỹ, nhưng không, nó được bảo quản trong một tủ kính trong phòng khách. Cho tôi xem những mộc bản, Thượng tọa Thích Hạnh Hoa, trụ trì chùa Phước Lâm xác nhận: “Bộ mộc bản này được chùa lưu giữ gần 300 năm và đã truyền qua 14 đời trụ trì”. Cổ tự Phước Lâm nơi bảo quản nhiều cổ vật Phật giáo. Lần về sử xưa, chùa Phước Lâm là một trong những chùa thuộc thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh ở Hội An, với niên đại hình thành cách đây gần 300 năm. Nơi đây có nhiều công trình kiến trúc, nghệ thuật có giá trị như hoành phi, liễn đối, bia ký, chuông đồng... Tuy nhiên, bộ mộc bản được khắc nổi tinh xảo và công phu mới là điều đặc biệt. Được khắc trên gỗ thị đỏ, với nhiều kích thước và tại đây cỡ chữ khác nhau, tuy sang 2 thiên niên kỷ, những chữ khắc trên mộc bản vẫn rất rõ nét. Văn tự trên mộc bản được khắc bằng cả chữ Hán lẫn chữ Nôm theo phương pháp khắc ngược. Có những văn tự khác còn được khắc chân dung của những vị Phật rất sống động, trông như những tác phẩm điêu khắc nghệ thuật tinh xảo, diễn đạt tài giỏi của người thợ Việt xưa. Thượng tọa Thích Hạnh Hoa kể, để phục vụ cho truyền dạy Phật pháp, nên người xưa đã cho khắc những mộc bản này, trên đó biểu thị các bộ kinh như Hồng Danh Bửu Sám, Niệm Phật Vãng Sanh, Kinh Pháp Hoa, Phổ Môn... Các bài chú như Thập Chú, Đại Bi Chú. Ngày xưa, đây là cách phổ quát để lưu giữ nội dung Kinh và giáo lý Phật, tuy nhiên không còn nhiều chùa lưu giữ được bộ mộc bản như thế. “Mộc bản về Kinh Phật thì nhiều nơi còn lưu giữ, nhưng riêng chùa Phước Lâm thì còn lưu giữ được những bài cúng theo tín ngưỡng dân gian. Trong 250 mộc bản thì có nhiều mộc bản khắc những bài cúng mang thuộc tính bùa chú. Những bài cúng này được đưa vào mộc bản xuất phát từ chính nhu cầu của người dân bản địa vì nó hình thành từ sự tương giao giữa Phật giáo với một phần Lão giáo của thầy phù thủy”, trụ trì Thích Hạnh Hoa lý giải. Chính vì bien den led những điều đặc biệt ở bộ kinh mộc bản ở chùa Phước Lâm, mà nhiều người tìm đến chùa để in sao. “Trước đây có những thầy cúng ở TPHCM tìm đến tận chùa để san định, in ấn tất thảy nội dung những bài cúng trong mộc bản để mang về ứng dụng ở địa phương. Bởi có nhiều bài kinh, bài cúng ngày trước chỉ còn được lưu giữ ở mộc bản này”, Thượng tọa Thích Hạnh Hoa nói thêm. Những bài kinh và phù chú được khắc trong mộc bản. Mang giá trị đặc biệt như thế nên suốt mấy trăm năm qua, dù sang trọng bao thiên tai và tàn phá của chiến tranh nhưng chùa Phước Lâm vẫn gìn giữ chi tiết tham khảo mộc bản này rất cẩn thận. Tuy thế, gần 10% trong số 250 mộc bản kinh Phật này đã bị mối mọt, khiến nhiều nội dung văn khắc bị mờ, không đọc được. Tuy nhiên, đó không phải là nỗi lo lớn nhất của trụ trì chùa Phước Lâm. Bởi từ khi biết chùa có cổ vật, trộm đã trực tính dòm nom. Mới đây nhất vào cuối tháng 4, trộm đã đột nhập và lấy đi 3 tượng Phật quý tại chùa. Cả ba bức tượng mất trộm tại gian chính điện đều bằng đồng, niên đại khoảng 300 năm, gồm tượng Di Lặc, tượng Bổn sư, tượng Quan Âm. Dù đã trình báo cơ quan chức năng nhưng đến nay vẫn chưa tìm ra đầu mối của những bức tượng cổ trên. “Trước đây, những bộ mộc bản chỉ được chất chồng trên một góc, gần đây được Trung tâm quản lý di tích Hội An cho chiếc tủ nên bảo quản tốt hơn. Nhưng tôi vẫn lo bị mất trộm”, Thượng tọa Thích Hạnh Hoa nói. Có thế thấy, mộc bản được lưu giữ ở chùa Phước Lâm có một giá trị văn hóa, lịch sử, nghệ thuật độc đáo và đặc sắc. Vì thế, sẽ rất đau lòng nếu một ngày nào đó bộ mộc bản này cũng bị trộm mất. Hoàng Anh

Trung Quốc đưa tàu du lịch trái phép ra Hoàng Sa

Bản tin của Tân Hoa xã cho biết tàu du lịch này có tên Coconut Princess rời cảng Tam Á chiều qua với lộ mau bien quang cao cua hang trình bốn ngày ba đêm trên biển đến Hoàng Sa. Công ty chủ quản tàu nói Coconut Princess mất 12 giờ cho quãng đường kể trên. Tour du lịch trái phép này đưa du khách Trung Quốc đến ba đảo trong quần đảo Hoàng Sa tại đây của Việt Nam bao gồm bãi Xà Cừ, đảo Ốc Hoa, đảo Ba Ba. Tại đây họ sẽ chơi bóng chuyền, lặn, câu cá và chụp ảnh cưới. Để đi tour du lịch trái phép kể trên, mỗi du khách phải trả 650-1.200 USD. Từ tháng 4-2013, Trung Quốc đã cho thử nghiệm tour du lịch trái phép từ tham khảo Hải Khẩu đến Hoàng Sa của Việt Nam và khoảng 3.500 du khách đã tham dự hành trình này. Tuyến đường mới Tam Á - Hoàng Sa được nói là ngắn hơn tuyến đường cũ tám giờ. THU ANH

Nhớ lời chúc thư với nhiệm vụ xây dựng Đảng

Ông Nguyễn Đức Hà, Vụ trưởng Vụ Cơ sở Đảng, Ban Tổ chức Trung ương. Ảnh: VGP/Phương Liên Ông Nguyễn Đức Hà, Vụ trưởng Vụ Cơ sở Đảng, Ban Tổ chức Trung ương đã dành cho phóng viên Báo điện tử Chính phủ cuộc thảo luận về bản Di chúc của Hồ Chủ tịch can hệ đến vấn đề công tác cán bộ, bổ dưỡng đời cách mạng kế tiếp. Chúc thư là lời căn dặn rút cuộc mà Bác để lại, không chỉ là nghĩa vụ mà còn là tình cảm của Bác đối với Đảng, với dân chúng, với dân tộc. Bản chúc thư vừa là văn kiện của một nhà chính trị lớn, vừa là tác phẩm nghệ thuật tầm cỡ của một nhà văn hóa lớn. Thành thử, theo ông Nguyễn Đức Hà, bản chúc thư của Bác là một trong những bảo bối nhà nước. Trong khối di sản tinh thần mà Người để lại cho dân tộc Việt Nam, có 5 di sản đã được công nhận là báu vật quốc gia, đó là: "Đường Kách mệnh"; “Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù)”; “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”; “Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước” và “chúc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Khi được đọc, được nghe, được tiếp cận với bản Di chúc của Bác, người dân Việt Nam, ai cũng đều còn nguyên xúc động, xao xuyến. “Là người làm công tác Đảng nhiều năm, tôi càng bõ bèn, càng thấy sâu sắc bản Di chúc chứa đựng đầy ắp tình cảm của Bác”, ông Hà san sẻ. “Trước hết là nói về Đảng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “kết đoàn là một truyền thống cực kỳ quý của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ giàng sự đoàn kết tán thành của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng thực hiện dân chủ rộng rãi, liền tù tù và trang nghiêm tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. chi tiết Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Qua nhiều thời gian, ông Nguyễn Đức Hà càng hiểu lời dạy của Bác: “đoàn kết, kết đoàn, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Đoàn kết thứ nhất là kết đoàn trong Đảng, đoàn kết thứ hai là đoàn kết dân tộc, kết đoàn thứ ba chính là đoàn kết quốc tế”. Khi chúng ta đoàn kết như vậy, tổ quốc ta nhất mực “đại thành công”. Những lời dạy của Bác khôn xiết sâu sắc, khôn cùng thấm thía và đến bây chừ vẫn còn nóng hổi tính thời sự về vấn đề đoàn kết trong Đảng. Đối với quần chúng, Bác suốt đời phục vụ giang sơn, phục vụ quần chúng. #. Bác lo cái lo của dân, đau nỗi đau của dân. Ý kiến của Bác về vấn đề dân chúng rất rõ ràng: Đảng muốn mạnh, muốn vững phải dựa vào nhân dân. Sau này, những nguyên tắc, những quan điểm của Đảng đã cụ thể hóa quan điểm của Bác: Phải dựa vào quần chúng để xây dựng Đảng. Vừa qua, một số quy định của Bộ Chính trị đã khẳng định vai trò soát, giám sát của dân chúng với Đảng và xác định Đảng phải giữ mối liên hệ khăng khít với nhân dân, phải chịu sự rà, giám sát của nhân dân, phải chịu bổn phận trước dân chúng về những quyết định của mình. Trong quyết nghị số 25 (khóa XI) về đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với quần chúng nhân dân cũng đã trích dẫn những câu nói của Bác, lời dạy của Bác về gần dân, trọng Biển mica dân, tin dân, thương dân. Những tư tưởng của Bác đến hôm nay Đảng ta vẫn đang tiếp thực hiện. Quyết nghị Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) nêu 3 vấn đề cần kíp về xây dựng Đảng giờ, trong đó xác định việc “chống chọi ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước tiên là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức đương đầu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng” là vấn đề trọng điểm, xuyên suốt và thúc bách nhất. Theo ông Nguyễn Đức Hà, để thực hành có hiệu quả nhiệm vụ trên, các cấp ủy, tổ chức đảng cần thực hiện toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ của công tác xây dựng Đảng nêu trong quyết nghị Đại hội XI của Đảng và 4 nhóm giải pháp quyết nghị Trung ương 4 đã đề ra. Các cấp ủy, tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên phải dám nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật và đánh giá đúng sự thật về tình hình suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên ở chi bộ, đảng bộ và ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình. Trên cơ sở đó, chỉ rõ nguyên cớ chủ quan, khách quan và đề ra biện pháp cụ thể để giáo dục, trợ giúp, dự phòng hoặc sang sửa, khắc phục lỗi phù hợp với từng đối tượng. Những đảng viên có tả suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, cơ hội, thực dụng, vi phạm tư cách đảng viên nhưng nói quanh nói quẩn, giấu, không thành khẩn nhận khuyết điểm để tu chỉnh, thì cương quyết đưa ra khỏi Đảng để làm trong lành Đảng, khắc phục tình trạng "đảng viên đông nhưng không mạnh" bây giờ. Tuy nhiên, để chỉ rõ được sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ở trong cơ quan, địa phương, đơn vị mình, đòi hỏi mỗi cấp ủy, nhất là người đứng đầu phải có dũng khí, dám nhìn thẳng vào sự thực; kiên tâm chính trị cao và miêu tả nghĩa vụ chính trị trước Đảng, trước dân, đặt ích của Đảng, của dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân chủ nghĩa mình. Cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng phải đích thực tự giác, trung thực, thành khẩn và cầu thị; nghiêm chỉnh hi vọng, soi xét lại chính bản thân mình để đấu phát huy ưu điểm, kịp thời điểm phục hạn chế, khuyết điểm. Việc tự giác, trung thực, thành khẩn và cầu thị của cán bộ là nguyên tố khôn cùng quan yếu, quyết định kết quả của tự phê bình và phê bình, bởi vì không ai hiểu mình bằng chính mình; không ai có thể biết được tư tưởng, nghĩ suy, hành động của mình ngoài bản thân mình; chỉ có bản thân mỗi người mới biết trong đầu mình, trong tâm mình nghĩ gì, đúng hay sai, tốt hay xấu? Để thực hành tốt việc tự phê bình bien chuc danh de ban và phê bình, sự gương mẫu của cấp trên và của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị là cực kỳ quan yếu để cấp dưới học tập, noi theo. Thực tại của công tác xây dựng Đảng những năm qua cho thấy: Khi cán bộ lãnh đạo cấp trên, nhất là người đứng đầu ở các cấp thực thụ gương mẫu, tự giác, dũng mãnh nhận khuyết điểm của mình và kiên tâm sửa sang, khắc phục thì sẽ là tấm gương để cán bộ cấp dưới và đảng viên học tập, noi theo. Khi cán bộ lãnh đạo cấp trên, nhất là người đứng đầu ở các cấp thực thụ gương mẫu, tự giác, gan góc nhận tội của mình và quyết tâm tu tạo, khắc phục thì sẽ là tấm gương để cho cán bộ cấp dưới và đảng viên học tập, noi theo. Nếu cán bộ lãnh đạo cấp trên không kiểu mẫu, không tự giác nhận thấy khuyết điểm của mình và còn nể nang, dễ dãi khi phê bình người khác thì cán bộ cấp dưới sẽ kiểm điểm một cách sơ lược, hình thức, lấy lệ cho xong và bẩm sai sự thực với cấp trên. Đặc biệt, sự gương mẫu của cán bộ lãnh đạo ở cấp càng cao thì sự tác động, ảnh hưởng ở trong Đảng càng mạnh, sức lan tỏa trong từng lớp càng rộng và hiệu quả càng cao. Theo ông Nguyễn Đức Hà, cuộc đấu tranh để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, biến chất trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên là cuộc chống chọi lâu dài, gian khổ và rất cam go, phức tạp, không thể làm xong trong một sớm, một chiều mà phải tiến hành một cách thẳng thớm, liên tục như “đánh răng, rửa mặt hằng ngày” như Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dặn dò. Trước nhiệm vụ rất khó khăn này, các cấp ủy đảng, nhất là người đứng đầu có quyết tâm chính trị cao, có trách nhiệm chính trị lớn trước vận mệnh của Đảng, của dân tộc thì “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên ” như Bác Hồ đã dạy. Mặt khác, trong quá trình xây dựng, chấn chỉnh Đảng theo quyết nghị Trung ương 4 (khóa XI), Đảng càng phải dựa vào dân, phát huy sức mạnh vĩ đại của quần chúng như Bác Hồ đã dặn dò: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Phương Liên (ghi)