Thứ Ba, 4 tháng 2, 2014
Tận dụng vận hội "cơ cấu dân số vàng" đưa đất nước đi lên
Hạnh phúc gia đình. Ảnh: THANH HẢI Dưới giác độ kinh tế, dân số thường được chia thành hai nhóm: Nhóm "trong độ tuổi cần lao" (từ 15 đến 64 tuổi) và nhóm "dân số phụ thuộc" (bao gồm trẻ nít dưới 15 tuổi và những người già 65 tuổi trở lên). Mức sinh giảm mạnh vì thế so với năm 1979, tỷ lệ trẻ mỏ trong tổng số dân đã giảm gần một nửa, từ 43% nay còn khoảng 24%! Điều này làm cho tương quan giữa hai nhóm dân số nói trên đổi thay cơ bản. Nếu năm 1979, cứ 100 cần lao có tới 90 người "phụ thuộc" thì đến năm 2006 giảm xuống 50, năm 2012 chỉ còn 44, tức thị chỉ còn non một nửa! Khi tương ứng với 100 cần lao chỉ có 50 "phụ thuộc" hoặc ít hơn, người ta nói một cách hình ảnh rằng, đây là "cơ cấu dân số vàng". Cơ cấu này quý, vì cần lao nhiều, phụ thuộc ít, tạo ra cơ hội phát triển kinh tế. Cơ cấu này hiếm, vì nó chỉ xuất hiện một lần và kéo dài trong khoảng 30-40 năm trong lịch sử phát triển của mỗi nhà nước. Do đó, nó đúng là quý và hiến như "vàng"! Như vậy, từ năm 2006, Việt Nam đã bước vào giai đoạn có cơ cấu "dân số vàng" và dự báo thời kỳ này sẽ chấm dứt vào khoảng gần giữa thế kỷ 21, khi chỉ riêng người cao tuổi đã chiếm khoảng 30% tức thị dân số "siêu già" (như Nhật Bản và nhiều nước châu Âu hiện thời). Dân số "vàng" tác động đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống mỗi gia đình cũng như sự phát triển giang san, trên tất cả các mặt: Kinh tế, tầng lớp và môi trường. Trước nhất, trong thời kỳ "dân số vàng", mô hình "mỗi gia đình chỉ có một hoặc hai con" trở thành phổ biến nên quy mô gia đình nhỏ. Nếu năm 1979, làng nhàng mỗi hộ có 5,2 khẩu thì đến năm 2012, con số này chỉ còn 3,7. Kết quả điều tra mức sống dân cư nhiều năm qua đều khẳng định: Quy mô gia đình càng nhỏ thì thu nhập và tiêu dùng bình quân một người/một tháng càng cao. Trên bình diện vĩ mô, thời kỳ này, sự gia tăng dân số tiếp được kìm nén, dân số dần ổn định. Trước đây, dân số tăng nhanh, có tính "bùng nổ", với tỷ lệ tăng trên 3%/năm. Tuổi cơ cấu dân số vàng, dân số sẽ tăng không đáng kể, chỉ dưới 1%! nên chi, sẽ hạn chế được quy mô dân số. Một so sánh thực tại để thấy rõ điều này: Năm 1990, Việt Nam có 69 triệu dân còn Ethiopia có 48 triệu thì đến năm 2013, Việt Nam có 90 triệu dân, còn Ethiopia có tới 94 triệu! Nếu dân số Việt Nam tăng như Ethiopia, thì năm 2013 đã có tới 135 triệu người! Thật khó mường tưởng tác động của số dân khổng lồ này đối với kinh tế, tầng lớp và môi trường. Như vậy, so với Ethiopia, Việt Nam đã hạn chế được 45 triệu dân tăng thêm. Đây là điều cần thiết cho phát triển ở một sơn hà "đất chật, người đông" như Việt Nam, hiện có mật độ dân số cao gấp khoảng gần 6,5 lần mật độ dân số thế giới. Đặc điểm trổi trong thời kỳ "cơ cấu vàng" là dân số có khả năng cần lao (15 đến 64 tuổi) chiếm tỷ lệ cao, bây giờ khoảng 69% tổng dân số. Như đã nói ở trên, Việt Nam hiện có 90 triệu dân. Nếu cơ cấu dân số như năm 1979, thì năm nay, nước ta chỉ có gần 47,5 triệu người trong độ tuổi lao động, nhưng trên thực tại, con số này lên đến 62,1 triệu, nghĩa là tăng tới gần 15 triệu người so với số liệu giả định! Đây là dư lợi lớn của "dân số vàng" cho tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, khoảng một nửa dân số trong độ tuổi cần lao dưới 34 tuổi, thuận tiện cho việc tiếp thụ khoa học, kỹ thuật và linh hoạt trong chuyển đổi nghề. Tuy nhiên, theo Tổng điều tra dân số 2009, cần lao Việt Nam tụ hợp nhiều trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, năng suất thấp. Tỷ lệ lao động được đào tạo từ sơ cấp trở lên còn rất thấp, mới khoảng 14,6% và mất cân đối theo hướng "thừa thầy, thiếu thợ". Rõ ràng, đào tạo, tái cơ cấu đào tạo và chuyển đổi nghề cho hàng chục triệu cần lao là một thách thức lớn. Thời kỳ "cơ cấu dân số vàng" đang mang lại thời cơ lớn cho việc vượt qua thách thức này để nâng cao chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực - yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Gia đình ít con, thu nhập tăng và sức ép dân số lên hệ thống giáo dục đã được tháo gỡ. Dân số trong độ tuổi đi học (5 đến 24 tuổi) giảm từ hơn 33,2 triệu người năm 1999 xuống còn khoảng 29,5 triệu người năm 2013. Bối cảnh này đã tạo thuận lợi lớn cho gia đình và xã hội săn sóc sức khỏe, giáo dục, đào tạo đời trẻ. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 58% vào đầu thập niên 90, xuống còn 20% vào năm 2012; Tỷ lệ nhập học ở các cấp học phổ quát tăng lên không ngừng nhưng số học sinh đã bắt đầu giảm. Từ "cực điểm" trong năm học 2001-2002 với quy mô học sinh lên tới 17.875,6 nghìn, niên học 2010-2011 chỉ còn 14.792,83 nghìn, nghĩa là giảm tới trên 3 triệu học trò! Trong khi đó, giáo dục đại học phát triển mạnh. Thập niên trước tiên của thế kỷ 21, số trường đại học, cao đẳng và số sinh viên đã tăng hơn hai lần! Đầu tư ngân sách quốc gia cho giáo dục đạt 20% tổng chi ngân sách nhà nước, vào loại cao trên thế giới. Kết quả này tạo điều kiện để Việt Nam phát triển giáo dục từ chiều rộng sang chiều sâu. Ngày nay, gia đình có thể cho con trai và con gái đi học như nhau. Hiện, ở thảy các cấp học, tỷ lệ nữ đã ngang bằng với nam giới. Sinh nở ít, có học thức, được đào tạo, tuổi thọ cao, phụ nữ - một nửa dân số trong độ tuổi cần lao sẽ dự hoạt động kinh tế nhiều hơn, chất lượng hơn góp phần tạo nên lực lượng cần lao dồi dào, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đồng đẳng giới. Kinh nghiệm Nhật Bản cho thấy, việc nâng cao tỷ lệ tham dự hoạt động kinh tế của phụ nữ là chìa khóa hồi sinh kinh tế của giang sơn này. Để đưa giang sơn đi lên, phát triển bền vững, tránh được "bẫy thu nhập trung bình" và chống chọi được với thách thức dân số "siêu già" của thời kỳ "hậu dân số vàng", cần tận dụng những vận hội do "cơ cấu dân số vàng" mang lại, phê duyệt đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân công, tạo ra và dạo nhiều việc làm có thu nhập cao, cả ở trong và ngoài nước, hạn chế tiêu dùng xa xỉ, để nâng cao tiện tặn, thúc đẩy đầu tư. Mỏ vàng không khai phá thì còn, "cơ cấu dân số vàng", nếu không khai khẩn thì sẽ hết. Thành thử, nhận rõ, nắm bắt và tận dụng thời cơ này càng sớm, càng tốt, không chỉ là nhiệm vụ của các nhà lãnh đạo, quản lý mà còn là của mỗi người dân. GS, TS NGUYỄN ĐÌNH CỬ (Viện Dân số và Các vấn đề xã hội, Đại học Kinh tế quốc dân)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét